Giá năng lượng sạch đủ hấp dẫn?

Năm 2023, nếu cơ chế giá không ổn định, không có lộ trình tăng giá, nhà đầu tư không thể tính được các chỉ số tài chính và vì thể không tính được suất đầu tư.

Đó là chia sẻ của ông Nguyễn Quang Huân – Đại biểu Quốc hội đoàn Bình Dương, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Halcom Việt Nam với phóng viên DĐDN về thị trường năng lượng tái tạo (NLTT) trong bối cảnh mới.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân, Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch & Môi trường Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Halcom Việt Nam

– Nguồn điện từ NLTT đóng vai trò quan trọng trong mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng và trung hòa các-bon vào năm 2050, ông có thể chia sẻ về tiềm năng phát triển của nguồn NLTT Việt Nam?

NLTT là nguồn năng lượng sạch, xanh, hầu như không tham gia vào quá trình phát thải. Trong quá trình vận hành, ngành công nghiệp năng lượng tái tạo không xả thải các-bon ra môi trường, nên có thể coi đây là nguồn điện sạch nhất. Tuy nhiên, không thể nói ngành công nghiệp này tuyệt đối không tham gia quá trình phát thải, vì có thể một lượng nhỏ khí các-bon tương đương được sinh ra trong quá trình gia công, chế tạo thiết bị của chính ngành này.

Tại COP26, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã cam kết Việt Nam đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Hiện nay ngành năng lượng đang xả khoảng 40% tổng lượng phát thải, nếu theo kịch bản thông thường (BAU), với tốc dộ tăng trưởng GDP 7-8%/năm thì tới 2050, tổng lượng phát thải của Việt Nam sẽ vào khoảng 1,5 tỷ tấn CO2, tương đương và ngành năng lượng sẽ chiếm khoảng 65% tổng khí thải.

Để góp phần đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0, ngành năng lượng Việt Nam phải cắt giảm và dần loại trừ điện than. Các nhà máy nhiệt điện than phải chuyển đổi nguyên liệu đầu vào từ than sang sinh khối hoặc gas kể từ 2035 theo kịch bản phát thải ròng bằng không năm 2050. Thay thế điện than có thể là điện gió, điện mặt trời. Trong đó, điện gió ngoài khơi có tiềm năng còn lớn hơn điện gió trên đất liền. Theo báo cáo “Lộ trình phát triển điện gió ngoài khơi dành cho Việt Nam” của Ngân hàng thế giới (World Bank), đến năm 2030, công suất điện gió ngoài khơi có thể tăng từ 1 GW lên đến 5 – 19 GW, trong khi công suất điện gió đất liền có thể tăng từ 1,26 GW lên 17,34 GW.

Phát triển NLTT từ gió và mặt trời cũng đảm bảo an ninh năng lượng cho Việt Nam vì nó là nguồn tài nguyên sẵn có, không cần nhập khẩu như than hoặc khí hóa lỏng (LNG).

Tuy nhiên, vấn đề của NLTT là phát điện không đều, gây khó khăn trong việc tiếp nhận và truyền tải điện năng. Nếu tìm được giải pháp công nghệ phù hợp thì Việt Nam có thể khắc phục được các nhược điểm này, thí dụ như dùng công nghệ lưu trữ điện năng (storage). Mặt khác có thể nâng cấp và sử dụng công nghệ lưới điện thông minh để truyền tải nhiều điện hơn, điều tiết thông minh hơn.

– Để thực hiện được mục tiêu giảm phát thải và các cam kết tại Hội nghị COP 26, Chính phủ sẽ cần thực hiện những kế hoạch nào nhằm thúc đẩy sự phát triển NLTT và hỗ trợ nhà đầu tư trong giai đoạn tới, thưa ông?

Tôi cho rằng, cần phân kỳ phát triển điện gió và điện mặt trời. Hiện Quy hoạch Điện VIII chưa được phê duyệt nên các kế hoạch cụ thể của Chính phủ chưa định hình rõ nét. Nhìn chung, vẫn cần áp dụng các giải pháp: thứ nhất là lưu trữ điện năng, thứ hai là nâng cấp và sử dụng lưới điện thông minh, và thứ ba là tiêu dùng điện tại chỗ, tránh quá tải lưới điện. Để làm được điều đó, yếu tố công nghệ lưu trữ, sản xuất điện, phân phối tiêu thụ điện đóng vai trò lớn trong việc điều hành ngành điện. Chính phủ cần tính thêm dự trữ nguồn lực cần chi phí đầu tư bao nhiêu để thay thế điện than, điện sử dụng nguyên liệu hóa thạch từ năm 2035 trở đi để hiện thực hóa kế hoạch này.

Để hỗ trợ nhà đầu tư, chính sách đưa ra cần mang tính ổn định. Vừa qua chính sách giá FIT rất ngắn hạn và không có giai đoạn chuyển tiếp, khiến cho các nhà đầu tư lúng túng, nhiều công trình đã đầu tư lên tới 5-7 tỷ USD nhưng không vận hành, gây lãng phí. Bên cạnh đó, cần khơi thông nguồn vốn giúp các doanh nghiệp trong nước, đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm bảo tỷ lệ vốn chủ sở hữu để thu hút trái phiếu và tín dụng xanh quốc tế, đầu tư vào năng lượng tái tạo.

Để phát triển bền vững, Chính phủ cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, dài hạn. Đơn cử như chính sách giá phải cố định hoặc có lộ trình tăng đến hết vòng đời dự án…

-Trong hai năm qua, doanh nghiệp NLTT đã gặp rất nhiều khó khăn bởi sự ngắt quãng của chính sách, vậy ông có những lời khuyên nào cho nhà đầu tư?

Các nhà đầu tư nên bám sát chính sách và nên nghe ngóng, chờ đợi, không nên rót vốn lớn đầu tư khi chưa có chính sách rõ ràng. Chẳng hạn như thời gian vừa qua, mặc dù Chính phủ đưa ra thời gian hết hạn ưu đãi cho giá điện mặt trời là 30/12/2021, điện gió 30/10/2021, nhưng nhiều nhà đầu tư vẫn rót vốn tiếp tục xây dựng công trình với hy vọng chính sách thay đổi, quá phụ thuộc vào may rủi, khiến dự án sau khi hoàn thành lại để không, đắp chiếu do không có cơ chế giá mới. Nhiều nhà đầu tư phá sản do gồng gánh trả lãi ngân hàng trong khi không có doanh thu. Đây là bài học đau xót đối với nhà đầu tư.

– Xin cảm ơn ông!

Nguồn: Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp